Tại Sao Càng Muốn Hết Khổ Lại Càng Khổ Thêm? Bí Mật Từ Kinh Đại Kinh Pháp Hành Giúp Bạn Thoát Vòng Luẩn Quẩn!
Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) - Tập I - Bài 46
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính chào quý vị và các bạn đang đến với kênh Học Thầy Minh Tuệ - Học Phật Tu Tâm.
Nếu quý vị thấy những chia sẻ này hữu ích, xin hãy tặng kênh một lượt thích và bấm đăng ký, chia sẻ để những lời dạy giá trị của Đức Thế Tôn được lan tỏa đến nhiều người hơn nữa, giúp mọi người cùng tìm thấy con đường tu tập đúng đắn, mang lại an lạc cho bản thân và gia đình. Xin cảm ơn quý vị rất nhiều!
Hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu một bài kinh rất quan trọng trong Trung Bộ Kinh, đó là Kinh số 46, Đại Kinh Pháp Hành, tên Pali là Mahàdhammasamàdàna Sutta. Bài kinh này được chính Đức Thế Tôn thuyết giảng tại Tịnh xá Kỳ Viên, vườn của ông Cấp Cô Độc, ở thành Xá Vệ.
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, Jetavana, tại tịnh xá Ông Anathapindika. Tại đây, Thế Tôn gọi các vị Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ-kheo."
Các vị Tỷ-kheo vâng đáp: "Bạch Thế Tôn."
Và Thế Tôn bắt đầu giảng:
"Này các Tỷ-kheo, phần lớn các loài hữu tình, tức là chúng sanh chúng ta đó, đều có một cái mong muốn, một ước vọng, một nguyện vọng như thế này: 'Ôi, mong rằng những điều không đáng ưa, không đáng thích, không vừa ý (bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý) nó mất đi! Mong rằng những điều đáng ưa, đáng thích, vừa ý (khả ái, khả lạc, khả ý) nó tăng lên!' Ai trong chúng ta mà không mong như vậy phải không quý vị? Mong hết khổ, được vui. Mong hết bệnh tật, được khỏe mạnh. Mong hết nghèo khó, được giàu sang. Mong hết buồn phiền, được hạnh phúc.
Nhưng này các Tỷ-kheo, mặc dù chúng ta mong muốn như vậy, ước vọng như vậy, nguyện cầu như vậy, thì thực tế thường lại diễn ra ngược lại: những điều không đáng ưa, không đáng thích, không vừa ý (những cái khổ, cái buồn) nó cứ tăng lên; còn những điều đáng ưa, đáng thích, vừa ý (những cái vui, cái sướng) thì lại mất đi, tiêu diệt đi. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Người có biết vì nguyên nhân gì không?"
Lúc này, các vị Tỷ-kheo thành kính thưa:
"Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế Tôn làm lãnh đạo, nương tựa Thế Tôn làm y cứ. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn thuyết giảng cho ý nghĩa này! Sau khi được nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ hành trì."
Thế Tôn dạy: "Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng."
Các Tỷ-kheo vâng đáp: "Thưa vâng, bạch Thế Tôn."
Và Thế Tôn bắt đầu giải thích nguyên nhân gốc rễ của vấn đề này:
"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người gọi là 'vô văn phàm phu'. Tức là người bình thường, ít nghe, ít học hỏi Chánh pháp. Họ không tìm đến các bậc Thánh, không hiểu biết pháp của các bậc Thánh, không thực hành theo pháp của các bậc Thánh. Họ cũng không tìm đến các bậc Chân nhân (những người chân chánh, có trí tuệ và đạo đức), không hiểu biết pháp của các bậc Chân nhân, không tu tập theo pháp của các bậc Chân nhân.
Vì sao? Vì họ không biết rõ: Pháp nào nên 'phục vụ' (tức là nên làm, nên thực hành, nên theo đuổi)? Pháp nào không nên phục vụ (nên tránh xa, nên từ bỏ)? Pháp nào nên 'thân cận' (nên gần gũi, nên tiếp xúc, nên học hỏi)? Pháp nào không nên thân cận (nên lánh xa)?
Do không biết rõ điều này, người này lại đi 'phục vụ' những pháp không nên phục vụ - tức là làm những điều sai trái, bất thiện. Lại không 'phục vụ' những pháp nên phục vụ - tức là bỏ qua những điều đúng đắn, thiện lành. Họ 'thân cận' những pháp không nên thân cận - tức là gần gũi với những điều xấu ác, những người xấu. Lại không 'thân cận' những pháp nên thân cận - tức là xa lánh những điều tốt đẹp, những người hiền trí.
Vì làm những điều không nên làm, không làm những điều nên làm; gần gũi những cái không nên gần, không gần những cái nên gần, cho nên, kết quả là gì? Các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý (những điều khổ đau, phiền não) cứ tăng trưởng lên; còn các pháp khả ái, khả lạc, khả ý (những điều an vui, hạnh phúc) lại bị tiêu diệt đi.
Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì người ấy không có trí tuệ (không có trí) đối với pháp này. Họ thiếu hiểu biết đúng đắn về nhân quả, về con đường thiện ác."
Chúng ta thấy rõ ràng phải không quý vị? Giống như mình muốn đi về hướng Bắc để đến nơi mát mẻ, nhưng lại không biết đường, cứ đi về hướng Nam, càng đi càng thấy nóng bức, khổ sở. Đó là vì thiếu hiểu biết, thiếu trí tuệ chỉ đường.
Rồi Đức Thế Tôn nói về hạng người thứ hai, đối lập lại:
"Và này các Tỷ-kheo, có vị 'Đa văn Thánh đệ tử'. Tức là người đệ tử của bậc Thánh, đã nghe nhiều, học nhiều Chánh pháp. Vị này tìm đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh. Họ tìm đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân.
Nhờ vậy, vị này biết rất rõ: Pháp nào nên phục vụ, pháp nào không nên phục vụ. Pháp nào nên thân cận, pháp nào không nên thân cận.
Vì biết rõ như vậy, vị này chỉ 'phục vụ' những pháp nên phục vụ (làm điều thiện lành), không 'phục vụ' những pháp không nên phục vụ (tránh xa điều ác). Chỉ 'thân cận' những pháp nên thân cận (gần gũi điều tốt, người hiền), không 'thân cận' những pháp không nên thân cận (lánh xa điều xấu, người ác).
Do làm điều nên làm, không làm điều không nên làm; gần cái nên gần, không gần cái không nên gần, cho nên kết quả là: các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý (khổ đau, phiền não) bị tiêu diệt đi; còn các pháp khả ái, khả lạc, khả ý (an vui, hạnh phúc) được tăng trưởng lên.
Vì sao vậy? Như vậy này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí tuệ (có trí) đối với pháp này. Họ hiểu biết đúng đắn về nhân quả, về con đường thiện ác."
Như vậy, gốc rễ của việc tại sao mong hạnh phúc mà lại gặp khổ đau, chính là do "vô trí" – thiếu hiểu biết, không phân biệt được đâu là con đường dẫn đến khổ, đâu là con đường dẫn đến vui. Ngược lại, người có "trí" – có hiểu biết đúng đắn – sẽ biết cách chọn lựa hành động, chọn lựa cách sống để đi đến an lạc thật sự.
Tiếp theo, Đức Thế Tôn phân tích cụ thể hơn về các "cách thực hành", các "lối sống" hay "pháp hành" mà chúng ta thường gặp. Ngài chỉ ra có bốn loại:
"Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp hành. Thế nào là bốn?
Này các Tỷ-kheo, có pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo cũng khổ.
Này các Tỷ-kheo, có pháp hành hiện tại lạc (vui), tương lai quả báo khổ.
Này các Tỷ-kheo, có pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc (vui).
Này các Tỷ-kheo, có pháp hành hiện tại lạc (vui) và tương lai quả báo cũng lạc (vui)."
Bốn con đường, bốn cách sống rất rõ ràng. Bây giờ, chúng ta hãy xem người "vô trí" và người "có trí" đối diện với bốn pháp hành này như thế nào.
(Phần giải thích về Kẻ vô trí)
"Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành thứ nhất: hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Do vô trí với pháp này, do si mê, nên người ta không tuệ tri như chân (không thấy biết đúng sự thật) rằng: 'Đây là cách sống bây giờ khổ, mà kết quả sau này cũng khổ'. Vì không biết rõ, họ lại đi 'phục vụ' pháp này (lao vào làm), không tránh né pháp này. Kết quả? Những điều khổ đau cứ tăng lên, những điều an vui mất đi. Vì sao? Vì họ thiếu trí tuệ.
Ví dụ thực tế là gì? Có người vì hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu (khổ hiện tại), lại đi làm những việc bất chính như trộm cắp, lừa đảo. Lúc làm thì lo sợ, căng thẳng (vẫn khổ), mà kết quả tương lai là tù tội, bị xã hội khinh rẻ, hoặc quả báo xấu ở đời sau (khổ tương lai). Đó chính là hiện tại khổ, tương lai cũng khổ. Người vô trí không nhận ra, cứ nghĩ làm liều để thoát khổ, nhưng thực ra lại lún sâu vào khổ hơn.
Tiếp theo, pháp hành thứ hai: hiện tại lạc (vui), tương lai quả báo khổ. Do vô trí, do si mê, người ta cũng không biết rõ: 'Đây là cách sống bây giờ thì thấy vui sướng đó, nhưng kết quả sau này là đau khổ'. Vì không biết, họ lại lao vào 'phục vụ' pháp này, không tránh né. Kết quả? Khổ đau vẫn tăng, an vui vẫn mất. Vì sao? Vẫn là vì thiếu trí tuệ.
Ví dụ này thì rất nhiều trong cuộc sống. Có người thích ăn nhậu bê tha, lúc ăn nhậu thì vui vẻ, hò hét (lạc hiện tại). Nhưng hậu quả là bệnh tật (ung thư gan, tai biến...), gia đình tan nát, sự nghiệp tiêu tan (khổ tương lai). Có người thích nói dối để được lợi trước mắt, lúc nói dối trót lọt thì thấy khoái chí (lạc hiện tại). Nhưng khi bị phát hiện thì mất hết uy tín, bạn bè xa lánh (khổ tương lai). Có người tham gia vào các đường dây cờ bạc, cá độ, lúc mới chơi có thể thắng chút ít, thấy vui (lạc hiện tại), nhưng rồi sa đà, bán nhà bán cửa, nợ nần chồng chất (khổ tương lai). Người vô trí chỉ thấy cái vui trước mắt mà không thấy cái họa về sau.
Pháp hành thứ ba: hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc (vui). Do vô trí, do si mê, người ta lại không biết rõ: 'Đây là cách sống bây giờ thì có chút khó khăn, vất vả, nhưng kết quả sau này sẽ được an vui'. Vì không biết, họ lại không 'phục vụ' pháp này, lại đi tránh né nó. Kết quả? Khổ đau lại tăng, an vui lại mất. Vì sao? Vẫn là vì thiếu trí tuệ.
Ví dụ là gì? Có người muốn rèn luyện sức khỏe, phải dậy sớm tập thể dục. Lúc mới tập thì mệt mỏi, đau nhức, phải cố gắng (khổ hiện tại). Nhưng nếu kiên trì, sau này sẽ có sức khỏe tốt, thân thể cường tráng, ít bệnh tật (lạc tương lai). Có người muốn học một kỹ năng mới để có công việc tốt hơn, phải thức khuya dậy sớm, đọc sách, thực hành, tốn kém thời gian, tiền bạc (khổ hiện tại). Nhưng sau khi thành thạo, họ có thu nhập cao hơn, cuộc sống ổn định hơn (lạc tương lai). Có người muốn giữ gìn giới hạnh, phải từ bỏ những thói quen xấu, phải kiềm chế tham muốn, sân hận, ban đầu thấy khó chịu, bức bối (khổ hiện tại). Nhưng nhờ vậy mà tâm hồn thanh thản, được mọi người kính trọng, tương lai được quả báo tốt đẹp (lạc tương lai). Người vô trí thấy cái khổ trước mắt đã nản lòng, bỏ cuộc, không dám dấn thân vào con đường tuy có khó khăn ban đầu nhưng lại dẫn đến hạnh phúc bền lâu.
Cuối cùng, pháp hành thứ tư: hiện tại lạc (vui), tương lai quả báo cũng lạc (vui). Do vô trí, do si mê, người ta cũng không biết rõ: 'Đây là cách sống bây giờ đã vui rồi, mà kết quả sau này cũng tiếp tục vui'. Vì không biết, họ lại không 'phục vụ' pháp này, lại tránh né nó. Kết quả? Khổ đau vẫn tăng, an vui vẫn mất đi. Vì sao? Vẫn là vì thiếu trí tuệ.
Nghe có vẻ lạ phải không quý vị? Tại sao con đường vừa vui hiện tại, vừa vui tương lai mà người ta lại tránh né? Vì người vô trí, tâm họ bị che mờ bởi tham lam, sân hận, si mê, họ không nhận ra được đâu là niềm vui chân chính, bền vững. Họ có thể thấy việc làm phước, bố thí, giúp đỡ người khác là phiền phức, tốn kém, mất thời gian, nên họ tránh né. Họ thấy việc giữ gìn lời nói chân thật, hòa ái là khó khăn, nên họ không làm. Họ thấy việc tu tập thiền định, giữ tâm thanh tịnh là nhàm chán, nên họ không thực hành. Họ không biết rằng chính những việc làm thiện lành này, dù có thể thực hiện với tâm hoan hỷ (lạc hiện tại), mới thực sự mang lại hạnh phúc vững bền cho cả hiện tại và tương lai (lạc tương lai). Họ mải mê chạy theo những thú vui tạm bợ của pháp hành thứ hai, nên bỏ lỡ con đường an lạc đích thực này."
(Phần giải thích về Người trí)
"Bây giờ, chúng ta xem người có trí tuệ, vị Đa văn Thánh đệ tử, họ đối diện với bốn pháp hành này như thế nào.
Đối với pháp hành thứ nhất: hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Do có trí, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân (thấy biết đúng sự thật): 'Pháp hành này hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ'. Vì biết rõ như vậy, vị này không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Nhờ đó, các pháp khổ đau bị tiêu diệt, các pháp an vui được tăng trưởng. Vì sao? Vì vị ấy có trí tuệ. Họ biết rõ con đường xấu ác chỉ dẫn đến khổ đau, nên cương quyết tránh xa.
Đối với pháp hành thứ hai: hiện tại lạc (vui), tương lai quả báo khổ. Do có trí, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân: 'Pháp hành này hiện tại lạc, nhưng tương lai quả báo khổ'. Vì biết rõ như vậy, vị này không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Nhờ đó, các pháp khổ đau bị tiêu diệt, các pháp an vui được tăng trưởng. Vì sao? Vì vị ấy có trí tuệ. Họ không bị cái vui giả tạm trước mắt mê hoặc, họ thấy được hậu quả tai hại về sau, nên không dại gì mà lao vào. Giống như thấy viên kẹo bọc đường nhưng bên trong là thuốc độc, người trí sẽ không ăn.
Đối với pháp hành thứ ba: hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc (vui). Do có trí, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân: 'Pháp này hiện tại khổ, nhưng tương lai quả báo lạc'. Vì biết rõ như vậy, vị này phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Nhờ đó, các pháp khổ đau bị tiêu diệt, các pháp an vui được tăng trưởng. Vì sao? Vì vị ấy có trí tuệ. Họ hiểu rằng muốn có quả ngọt thì phải chấp nhận gian khổ ban đầu. Họ sẵn sàng chịu khó rèn luyện, tu tập, làm điều thiện, vì biết rằng đó là con đường dẫn đến hạnh phúc chân thật. Giống như người bệnh biết uống thuốc đắng để hết bệnh vậy.
Đối với pháp hành thứ tư: hiện tại lạc (vui) và tương lai quả báo cũng lạc (vui). Do có trí, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân: 'Pháp hành này hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc'. Vì biết rõ như vậy, vị này phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Nhờ đó, các pháp khổ đau bị tiêu diệt, các pháp an vui được tăng trưởng. Vì sao? Vì vị ấy có trí tuệ. Họ nhận ra đâu là niềm vui chân chính, thiện lành, và hoan hỷ thực hành nó. Họ vui trong việc làm phước, giữ giới, tu thiền, biết rằng những việc này vừa mang lại an lạc ngay trong hiện tại, vừa tạo nhân tốt cho tương lai."
(Phần mô tả chi tiết 4 pháp hành qua 10 nghiệp)
Đến đây, Đức Thế Tôn mô tả cụ thể hơn nữa bốn loại pháp hành này dựa trên mười nghiệp (hành động của thân, khẩu, ý):
"Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo cũng khổ?
Ở đây, có người:
Với tâm trạng khổ sở, ưu phiền (với khổ, với ưu) mà đi sát sanh (giết hại chúng sanh).
Với khổ, với ưu mà đi lấy của không cho (trộm cắp).
Với khổ, với ưu mà sống theo tà hạnh trong các dục (ngoại tình, quan hệ bất chính).
Với khổ, với ưu mà nói lời vọng ngữ (nói dối).
Với khổ, với ưu mà nói lời hai lưỡi (đâm thọc, chia rẽ).
Với khổ, với ưu mà nói lời ác ngữ (chửi rủa, mắng nhiếc).
Với khổ, với ưu mà nói lời phù phiếm (nói nhảm, vô ích).
Với khổ, với ưu mà có tâm tham ái (tham lam, muốn chiếm đoạt).
Với khổ, với ưu mà có tâm sân hận (giận dữ, oán ghét).
Với khổ, với ưu mà có tà kiến (hiểu biết sai lầm về nhân quả, nghiệp báo). Và do duyên làm những điều này trong tâm trạng khổ sở, họ cảm thọ khổ ưu ngay lúc đó. Sau khi thân hoại mạng chung, người này sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Đây gọi là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo cũng khổ."
"Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại lạc (vui), tương lai quả báo khổ?
Ở đây, có người:
Với tâm trạng vui vẻ, thích thú (với lạc, với hỷ) mà đi sát sanh (ví dụ đi săn bắn cho vui).
Với lạc, với hỷ mà đi lấy của không cho (trộm cắp tinh vi, thấy khoái trá).
Với lạc, với hỷ mà sống theo tà hạnh trong các dục (say mê trong lạc thú sai trái).
Với lạc, với hỷ mà nói lời vọng ngữ (nói dối để mua vui, khoe khoang).
Với lạc, với hỷ mà nói lời hai lưỡi (thích thú khi chia rẽ người khác).
Với lạc, với hỷ mà nói lời ác ngữ (thích chửi bới, miệt thị người khác cho sướng miệng).
Với lạc, với hỷ mà nói lời phù phiếm (thích tán gẫu chuyện vô bổ cho vui).
Với lạc, với hỷ mà có tâm tham ái (vui thích khi được thỏa mãn lòng tham).
Với lạc, với hỷ mà có tâm sân hận (thích thú khi trút giận lên người khác).
Với lạc, với hỷ mà có tà kiến (vui vẻ với những quan điểm sai lầm). Và do duyên làm những điều này trong tâm trạng vui thích, họ cảm thọ lạc và hỷ ngay lúc đó. Nhưng sau khi thân hoại mạng chung, người này vẫn sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Đây gọi là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ."
"Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc (vui)?
Ở đây, có người:
Với tâm trạng khổ sở, ưu phiền (ví dụ phải đấu tranh nội tâm, thấy khó khăn) mà từ bỏ sát sanh.
Với khổ, với ưu mà từ bỏ lấy của không cho.
Với khổ, với ưu mà từ bỏ tà hạnh trong các dục.
Với khổ, với ưu mà từ bỏ nói lời vọng ngữ.
Với khổ, với ưu mà từ bỏ nói lời hai lưỡi.
Với khổ, với ưu mà từ bỏ nói lời ác ngữ.
Với khổ, với ưu mà từ bỏ nói lời phù phiếm.
Với khổ, với ưu mà từ bỏ tâm tham ái.
Với khổ, với ưu mà từ bỏ tâm sân hận.
Với khổ, với ưu mà từ bỏ tà kiến, hướng về chánh kiến. Và do duyên từ bỏ những điều xấu ác này, dù ban đầu có cảm thấy khó khăn, khổ sở, họ vẫn cảm thọ khổ ưu trong lúc cố gắng. Nhưng sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này (tái sanh vào cảnh giới tốt đẹp). Đây gọi là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc."
"Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại lạc (vui) và tương lai quả báo cũng lạc (vui)?
Ở đây, có người:
Với tâm trạng vui vẻ, hoan hỷ (với lạc, với hỷ) mà từ bỏ sát sanh (vui vì bảo vệ được sự sống).
Với lạc, với hỷ mà từ bỏ lấy của không cho (vui vì sống trong sạch, lương thiện).
Với lạc, với hỷ mà từ bỏ các tà hạnh trong các dục (vui vì giữ gìn được phẩm hạnh).
Với lạc, với hỷ mà từ bỏ nói lời vọng ngữ (vui vì được nói lời chân thật).
Với lạc, với hỷ mà từ bỏ nói lời hai lưỡi (vui vì nói lời đoàn kết).
Với lạc, với hỷ mà từ bỏ ác ngữ (vui vì nói lời ái ngữ, dễ nghe).
Với lạc, với hỷ mà từ bỏ nói lời phù phiếm (vui vì nói lời hữu ích, đúng thời).
Với lạc, với hỷ mà không có tham ái (vui với sự thiểu dục, tri túc).
Với lạc, với hỷ mà không có sân tâm (vui với tâm từ bi, tha thứ).
Với lạc, với hỷ mà có chánh kiến (vui với sự hiểu biết đúng đắn). Và do duyên từ bỏ điều ác, làm điều thiện với tâm hoan hỷ, vị ấy cảm thọ lạc và hỷ ngay trong hiện tại. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Đây gọi là pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc."
(Phần các ví dụ của Đức Phật)
Để làm rõ hơn nữa, Đức Thế Tôn đã đưa ra những ví dụ rất sinh động:
"Này các Tỷ-kheo, ví như trái bí đắng có tẩm thuốc độc. Có người muốn sống, không muốn chết, ưa vui, ghét khổ đến. Có người bảo: 'Này bạn, trái bí đắng này vừa đắng vừa độc. Nếu ăn, lúc ăn thì vị nó không ngon đâu (khổ hiện tại), mà ăn xong thì bạn sẽ chết hoặc đau khổ gần chết (khổ tương lai).' Nếu người kia không suy nghĩ, cứ ăn vào, thì rõ ràng là tự rước họa vào thân. Ta nói, pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo cũng khổ giống như ví dụ này."
"Này các Tỷ-kheo, ví như một bình nước uống bằng đồng trông rất đẹp, hương thơm, vị ngọt, nhưng lại có tẩm thuốc độc. Có người muốn sống, ưa vui đến. Có người bảo: 'Này bạn, bình nước này trông đẹp, uống ngon lắm đó (lạc hiện tại), nhưng uống xong thì bạn sẽ chết hoặc đau khổ gần chết (khổ tương lai).' Nếu người kia không suy nghĩ, cứ uống vào vì ham cái ngon trước mắt, thì cũng tự hại mình. Ta nói, pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ giống như ví dụ này."
"Này các Tỷ-kheo, ví như nước đái quỷ (một loại nước tiểu dùng làm thuốc thời xưa, có thể rất khó uống) được trộn với nhiều loại thuốc khác để chữa bệnh. Có người bị bệnh vàng da (hoàng đản) đến. Có người bảo: 'Này bạn, đây là thuốc trị bệnh, uống vào thì mùi vị nó kinh khủng lắm (khổ hiện tại), nhưng uống xong thì bạn sẽ hết bệnh, được an lạc (lạc tương lai).' Người kia suy nghĩ, biết đây là thuốc chữa bệnh, nên dù khó uống vẫn cố uống. Kết quả là hết bệnh, được khỏe mạnh. Ta nói, pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc giống như ví dụ này."
"Này các Tỷ-kheo, ví như sữa tươi (lạc), mật ong, bơ (thục tô) và đường phèn trộn lẫn với nhau thành một thứ vừa bổ dưỡng vừa ngon ngọt để chữa bệnh kiết lỵ. Có người bị bệnh đến. Có người bảo: 'Này bạn, thứ này vừa ngon vừa bổ. Uống vào thì rất thích thú về sắc, hương, vị (lạc hiện tại), mà uống xong thì bạn sẽ hết bệnh, được an lạc (lạc tương lai).' Người kia suy nghĩ, biết đây là thứ tốt, nên hoan hỷ uống vào. Kết quả là vừa được thưởng thức vị ngon, vừa hết bệnh. Ta nói, pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc giống như ví dụ này."
Sau khi đưa ra bốn ví dụ trên, Đức Thế Tôn nhấn mạnh về pháp hành thứ tư, pháp hành tốt đẹp nhất:
"Này các Tỷ-kheo, ví như vào cuối mùa mưa, trời vào thu, mùa gặt hái, bầu trời quang đãng, không một gợn mây. Mặt trời mọc lên giữa bầu trời, phá tan mọi bóng tối trong hư không, chói sáng, hực sáng và rực sáng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc này, sau khi phá sạch các dị thuyết (quan điểm sai lầm) của các Sa-môn, Bà-la-môn tầm thường (những người tu hành nhưng hiểu biết chưa đúng đắn), nó cũng chói sáng, hực sáng và rực sáng như vậy."
Lời dạy này thật là tuyệt vời phải không quý vị? Pháp hành thiện lành, vừa mang lại an lạc trong hiện tại, vừa gieo nhân hạnh phúc cho tương lai, nó tỏa sáng như ánh mặt trời, xua tan đi bóng tối của vô minh và khổ đau.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo vô cùng hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Qua bài kinh Đại Kinh Pháp Hành này, chúng ta thấy rõ ràng con đường dẫn đến hạnh phúc hay khổ đau nằm ở chính sự lựa chọn của chúng ta, dựa trên nền tảng là trí tuệ - sự hiểu biết đúng đắn về bốn loại pháp hành.
Chúng ta hãy tự soi xét lại bản thân mình xem:
Hằng ngày, chúng ta đang "phục vụ", đang thực hành những pháp hành nào?
Chúng ta có đang vì cái khổ trước mắt mà tránh né những việc thiện lành, những sự rèn luyện cần thiết không? (Tránh né pháp hành số 3)
Chúng ta có đang vì cái vui giả tạm trước mắt mà lao vào những việc bất thiện, gây hại cho mình và người khác không? (Thực hành pháp hành số 2)
Chúng ta có can đảm chấp nhận khó khăn ban đầu để theo đuổi con đường thiện lành, mang lại hạnh phúc bền lâu không? (Thực hành pháp hành số 3)
Và tuyệt vời nhất, chúng ta có đang hoan hỷ, vui vẻ trong việc làm lành lánh dữ, sống đúng Chánh pháp, để có được an lạc cả hiện tại và tương lai không? (Thực hành pháp hành số 4)
Mong rằng qua lời dạy của Đức Thế Tôn trong Đại Kinh Pháp Hành, mỗi chúng ta sẽ có thêm trí tuệ để nhận diện và lựa chọn con đường đúng đắn, con đường "hiện tại lạc, tương lai cũng lạc", để cuộc sống ngày một an vui, hạnh phúc và ý nghĩa hơn.
Xin cảm ơn quý vị đã lắng nghe. Xin chúc quý vị luôn tinh tấn trên con đường học Phật tu tâm. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.